Những nội dung dưới đây là xem trước một số trang của cuốn sách: Khoa học khám phá - Liệu IT đã hết thời.
Các trang này có thể không liền nhau để đảm bảo bản quyền.
1990 bắt đầu, các trang web và mạng nội bộ của công ty đã nở rộ ngày càng nhiều giao dịch thương nại được thực hiện trên mang và các nhà sản xuất phần mềm đã tạo ra nhưng chương trình mới tinh vi để quản lý mọi thứ, từ mua sắm vật tư đến phân phối hàng hóa, tiếp thị và bán hàng.
Cùng với việc giảm bót các hạn chế của chính phủ về thương mại, sự nơ rộ của phần cứng và phần mềm máy tính đã là nguồn lực chính định hình các hoạt động tinh doanh suốt 40 năm qua. Ngày nay, rất ít người còn phải tranh luận về việc công nghệ thông tin đã trở thành trụ cột của thương mại trong thế giới phát triển. Nó là nền tảng cho mọi hoạt động của các công ty riêng lẻ, kết nối các dây chuyền cung ứng xa cách, và ngày càng liên kết các doanh nghiệp với khách hàng mà họ phục vụ. IT lan tỏa trong sản xuất, bán buôn, bán lẻ vì dịch vụ kinh doanh; nó hiện diện trong các văn phòng điều hành và trên các sàn nhà máy, trong các phòng nghiên cứt, phát trển, và trong các ngôi nhà của khách hàng. Hầu như không một đồng đôla hay euro nào được giao dịch mà không có sự trợ giúp của các hệ thống máy tính.
SƯ THAY ĐỔI TƯ DUY LỚN
Khi sức mạnh và sự hiện diện của công nghệ thông tin mơ rộng, các doanh nghiệp đã coi nó như một tài nguyên vô cùng quan trọng cho sự thành công của họ. Tầm quan trọng gia tăng củi IT có thẩ thấy điợc một cách sốnị động níất trong thói quei chi tiêu của các công ty. Năm 1965, theo dữ liệu từ Cục Phân tích Kinh tế của Bộ Thương mại Mỹ, dưới 5% chi phí vốn của tác doanh nghiệp Mỹ cược dùng cho IT. Sau khi máy tính cá nhân được phổ biến rộng rã trong đầu những năm 1980, tỉ lệ đó tăng lên tới 15%
giữ bằng sáng ché của một hợp chất đặc biệt dùng lam cơ sở cho một dòng thuốc. Một nhà sản xuất công nghiệp có thể khám phá ra tách thức sáng tạo để áp dụng một công nghệ xử lý mà các đối thủ khó bắt chước được. Một công ty bán hàng tiêu dùng có thể có giấy phép độc quyền cho một bại vật lặu đóng gói mới :ó khả ning bảo quản sản phẩm lâu hơn so với các đối thủ. Một khi vẫn còn được bảo vệ khỏi các đối thỉ cạnh tranh, các công nghệ độc quyền có thể là nền tảng cho những lợi thì cạnh tranh lâu dài, tạo điều kiện cho các công ty giành được lợi nhuận cao hơn các đối thủ.
Ngược lại, công nghệ hạ tầng mang lại giá trị lớn hơn nhiều khi được chia sẻ thay vì bị sử dụng cô lập. Hãy nghĩ lại một chút, vào thời điểm của Thử nghiệm Rainhill và tưởng lượng rằng một công ty nắm quyền sở hũu toàn tộ công nghệ cần thiết để tạo ra đường sắt - thanh ray và bộ chuyển ray, đầu máy cho đến các toa tầu. Nếu muốn, công ty đó có thể xây dựng các tuyến đường độc quyền gữa các nhà cung cấp, nhà máy và đại lý phân phối và vận hành mừng chuyến tàu của họ tiên đó. Vì kết quả là công ty có thể sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Nhưng, với nền kinh tế rộng lơn, thì giá trị phát sinh từ một sự sắp đặt như vậy sẽ là tầm thường so với giá trị có thể phát sinh bởi việc xây dựng một mạng lưới đường sắt mở, kết nối nhiều công ty và nhiều người mua với nhau. Các đặc trưng Về giá trị kinh tế của công nghệ hạ tầng, dù là đường sắt hay đường điện báo, nhà máy điện hay đường cao tốc, khiến nó không thể trinh khỏi bị chia Sỉsẻ rộng rãi - khiến nó trở thành một phần của cơ sở hạ tầng kinh doanh chung.
Tuy nhiên, tại nhiều thời điểm, sụ phân biệt giữa công nghệ độc quyền và công nghệ hạ tầng có thể mờ nhạt. Trong những giai đoạn đầu của sự phát triển, một công nghệ hạ tầng có thể, và thường, mang hình dạng của một công nghệ độc quyền. Một khi sự tiếp cận công nghệ còn bịhạn chế - qua các giới hạn vật lý, chi
Ví dụ nhiều trong số những người đi tiên phong về sử dụng đi cho sản xuất đã phải từ bỏ những chiếc máy phát điện tại chỗ một lần nũa cải tạo nhà máy của họ để có thể khai thác mạng lưới điện rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Thú mà họ đã từng sản xuất cho riêng bản thân thì bây giờ họ phải bắt đầu mua như một dịch vụ tiện ích chung.
Hơn nữa khi công nghệ tưởng thành, cách thức sử dụng ra cũng bắt đầu được tiêu chuẩn hóa - những cách áp dụng tốt nhất được hiểu và mô phỏng một cách rộng rãi. Các tạp chí dành ch công nghệ bắt đầu được xuất bản, cung cấp những thông tin kỹ thuật chuyên sâu về việc sử dụng nó. Những tổ chức chuyên ngiiệp được thành lập, cho phép các kỹ sư và kỹ thuật viên từ nhiều công ty khác nhau chia sẻ kinh nghiệm và bí quyết. Các nhà tư vấn và nhà thầu nang các ý tưởng từ khách hàng này đến với khách hàng khác. Và các công ty bán công nghệ hay những thành phần liên quan - ví dụ như đường sắt, điện, và động cơ điện - mà các chiến dịch quảng cáo và khuyến mại để thu hút nhũng khách hàng tiềm năng. Đôi khi, những cách áp dụng tốt nhất rốt cuộc đi được phát triển và đưa vào trong chính cơ sở hạ tầng. Ví dụ như sau khi điện chí hóa, tất cả các nhà máy mới đã được xây dựng có nhiều ổ điện phân bổ khắp mọi nơi; mà sản xuất không còn lựa chọn nào khác là sử dụng một hệ thống hiệu quả được điều khiển theo đơn vị.
Khi kiến thức về một công nghệ lan truyền và ảnh hưởng của nó lên cấu trúc của một ngành công nghiệp hay nền kinh tế trở nên rõ ràng, thì các lợi thế của tầm nhìn xa sẽ giảm đi cùng với các lợi thế của sự tiếp cận. Cả công nghệ lẫn phương thức sử dụng nó đều được tiêu chuẩn hóa. Mặc dù những bước sáng tạo hữu ích vẫn tiếp tục được thực hiện, nhưng chúng thuờng được nhanh chóng kết hợp vào cơ sờ hạ tầng chung và do đó được chia sẻ với tất cả
Cảm ơn vì đã giải quyết đơn đặt hàng của chúng tôi nhanh chóng và đã giao sách đúng hẹn. Tôi rất vui vì ở VN có một nhà sách online uy tín và làm việc với phong cách hiện đại phục vụ nhanh, giống ở nước ngoài.
Chúng tôi sẽ thường xuyên đặt sách và sử dụng dịch vụ của quý của hang, xin hãy luôn nâng cao chất lượng và phong cách phục vụ để quý cửa hàng luôn được người tiêu dùng tin tuong xếp hàng uy tín nhất Việt Nam.